Tin Mới

Khởi nghiệp

Bí Quyết Kinh Doanh

Tư Vấn Khởi Nghiệp

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2016

Vốn và vai trò của vốn trong kinh doanh

      Để  tiến  hành  một  chu  kỳ  sản  xuất,  kinh  doanh  thì  đều  cần  có  vốn.  Vậy  vốn  là  gì? Tại  sao  nó  lại  có  vai  trò  quan  trọng  như  thế  đối  với  bất  kỳ  các  doanh  nghiệp  hay một  tổ  chức  cá  nhân  nào.  Với  tầm  quan  trọng  như  vậy,  việc  tìm  hiểu  và  nghiên  cứu cần  phải  bắt  đầu  từ  việc  làm  rõ  khái  niệm  cơ  bản  vốn  là  gì?  vai  trò  của  vốn  đối  với doanh  nghiệp.

Khái  niệm Trong  nền  kinh  tế  thị  trường  hiện  nay,  vốn  được  hiểu  và  quan  niệm  là  toàn  bộ những  giá  trị  ứng  ra  ban  đầu  vào  các  quá  trình  tiếp  theo  của  doanh  nghiệp. Khái  niệm  này  không  những  chỉ  ra  vốn  không  chỉ  là  một  yếu  tố  đầu  vào  quan  trọng đối  với  các  doanh  nghiệp  sản  xuất  mà  còn  đề  cập  tới  sự  tham  gia  của  vốn  trong doanh  nghiệp,  trong  cả  quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh  liên  tục  trong  suốt  thời  gian tồn  tại  của  doanh  nghiệp. Như  vậy,  vốn  là  một  yếu  tố  số  một  của  mọi  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh.  Có  vốn các  doanh  nghiệp  có  thể  mở  rộng  sản  xuất  kinh  doanh,  mua  sắm  các  trang  thiết  bị hay  triển  khai  các  kế  hoạch  khác  trong  tương  lai.  Vậy  yêu  cầu  đặt  ra  đối  với các doanh  nghiệp  là  họ  cần  phải  có  sự  quản  lý  và  sử  dụng  có  hiệu  quả  vốn  có  hiệu  quả nhằm  bảo  toàn  và  phát  triển  vốn,  đảm  bảo  cho  các  doanh  nghiệp  ngày  càng  phát triển  và  vững  mạnh. Các  đặc  trưng  cơ  bản  của  vốn
-  Vốn  phải  đại  diện  cho  một  lượng  tài  sản  nhất  định.  Có  nghĩa  là  vốn  phải  được biểu  hiện  bằng  giá  trị  tài  sản  hữu  hình  và  tài  sản  vô  hình  của  doanh  nghiệp
.-  Vốn  phải  vận  động  và  sinh  lời,  đạt  được  mục  tiêu  trong  kinh  doanh.-  Vốn  phải  được  tích  tụ  và  tập  trung  một  lượng  nhất  định  thì  mớicó  khả  năng  phát huy  tác  dụng  khi  đầu  tư  vào  các  lĩnh  vực  kinh  tế  đặc  biệt  trong  lĩnh  vực  kinh doanh.-  Vốn  có  giá  trị  về  mặt  thờigian.  Điều  này  có  thể  có  vai  trò  quan  trọng  khi  bỏ  vốn vào  đầu  tư  và  tính  hiệu  quả  khi  sử  dụng  đồng  vốn
- Vốn  phải  gắn  liền  với  chủ  sở  hữu  nhất  định,  vốn  sẽ  không  được  đưa  ra  để  đầu  tư khi  mà  người  chủ  của  nó  nghĩ  về  một  sự  đầu  tư  không  có  lợi  nhuận.-  Vốn  được  quan  niệm  như  một  thứ  hàng  hoá  và  có  thể  được  coi  là  thứ  hàng  hoá đặc  biệt  vì  nó  có  khả  năng  được  mua  bán  quyền  sở  hữu  trên  thị  trường  vốn,  trên thị  trường  tài  chính.
-  Vốn  không  chỉ  biểu  hiện  bằng  tiền  hay  các  giá  trị  hiện  vật  (  tài  sản  cố  định  của doanh  nghiệp:  máy  móc,  trang  thiết  bị  vật  tư  dùng  cho  hoạt  động  quản  lý.  .  .  )  của các  tài  sản  hữu  hình  (  các  bí  quyết  trong  kinh  doanh,  các  phát  minh  sáng  chế,.  .  .  ) Phân  loại  vốn Trong  quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh,  mỗi  doanh  nghiệp  đều  có  một  phương  thức và  hình  thức  kinh  doanh  khác  nhau.  Nhưng  mục  tiêu  của  họ  vẫn  là  tạo  ra  được  lợi nhuận  cho  mình.  Nhưng  điều  đó  chỉ  đạt  được  khi  vốn  của  doanh  nghiệp  được  quản lý  và  sử  dụng  một  cách  hợp  lý. Vốn  được  phân  ra  và  sử  dụng  tuỳ  thuộc  vào  mục  đích  và  loại  hình  doanh  nghiệp. Phân  loại  vốn  theo  nguồn  hình  thành Vốn  chủ  sở  hữu : Vốn  chủ  sở  hữu  là  số  vốn  của  các  chủ  sở  hữu,  các  nhà  đầu  tư  góp  vốn  liên  doanh, liên  kết  và  thông  qua  đó  doanh  nghiệp  không  phải  cam  kết  thanh  toán.  Do  vậy  vốn chủ  sở  hữu  không  phải  là  một  khoản  nợ.
*  Vốn  pháp  định: Vốn  pháp  định  là  số  vốn  tối  thiểu  mà  doanh  nghiệp  phải  có  khi  muốn  hình  thành doanh  nghiệp  và  số  vốn  này  được  nhà  nước  quy  định  tuỳ  thuộc  vào  từng  loại  hình kinh  doanh  của  doanh  nghiệp.  Đối  với  doanh  nghiệp  Nhà  Nước,  số  vốn  này  được ngân  sách  nhà  nước  cấp.
*Vốn  tự  bổ  xung: Thực  chất  loại  vốn  này  là  số  lợi  nhuận  chưa  phân  phối  (lợi  nhuận  lưu  trữ  )  và  các khoản  trích  hàng  năm  của  doanh  nghiệp  như  các  quỹ  xí  nghiệp  (  Quỹ  phúc  lợi,  quỹ đầu  tư  phát  triển  .  .  .  )
  *Vốn  chủ  sở  hữu  khác: Đây  là  loại  vốn  mà  số  lượng  của  nó  luôn  có  sự  thay  đổi  bởi  vì  do  đánh  giá  lại  tài sản,  do  chênh  lệch  tỷ  giá  ngoại  tệ,  do  được  ngân  sách  cấp  kinh  phí,  do  các  đơn  vị thành  viên  nộp  kinh  phí  quản  lý  và  vốn  chuyên  dùng  cơ  bản.


 Vốn  huy  động  của  doanh  nghiệp: Ngoài  các  hình  thức  vốn  do  nhà  nước  cấp  thì  doanh  nghiệp  còn  một  loại  vốn  mà vai  trò  của  nó  khá  quan  trọng,  đặc  biệt  trong  nền  kinh  tế  thị  trường  đó  là  vốn  huy động.  Để  đạt  được  số  vốn  cần  thiết  cho  một  dự  án,  công  trình  hay  một  nhu  cầu thiết  yếu  của  doanh  nghiệp  mà  đòi  hỏi  trong  một  thời  gian  ngắn  nhất  mà  doanh nghiệp  không  đủ  số  vốn  còn  lại  trong  doanh  nghiệp  thì  đòi  hỏi  doanh  nghiệp  phải có  sự  liên  doanh  liên  kết,  phát  hành  trái  phiếu  hay  huy  động  các  nguồn  vốn  khác dưới  hình  thức  vay  nợ  hay  các  hình  thức  khác.
 *  Vốn  vay:  Doanh  nghiệp  có  thể  vay  ngân  hàng,  các  tổ  chức  tín  dụng,  các  cá  nhân hay  các  đơn  vị  kinh  tế  độc  lập  nhằm  tạo  lập  và  tăng  thêm  nguồn  vốn.
Vốn  vay  ngân  hàng  và  các  tổ  chức  tín  dụng  là  rất  quan  trọng  đối  với  doanh  nghiệp. Nguồn  vốn  này  đáp  ứng  đúng  thời  điểm  các  khoản  tín  dụng  ngắn  hạn  hoặc  dài  hạn tuỳ  theo  nhu  cầu  của  doanh  nghiệp  trên  cơ  sở  hợp  đồng  tín  dụng  giữa  Ngân  hàng và  Doanh  nghiệp. Vốn  vay  trên  thị  trường  chứng  khoán.  Tại  các  nền  kinh  tế  có  thị  trường  chứng khoán  phát  triển,  vay  vốn  trên  thị  trường  chứng  khoán  là  một  hình  thức  huy  động vốn  cho  doanh  nghiệp.  Thông  qua  hình  thức  này  thì  doanh  nghiệp  có  thể  phát hành  trái  phiếu,  đây  là  một  hình  thức  quan  trọng  để  sử  dụng  vào  mục  đích  vay  dài hạn  để  đáp  ứng  nhu  cầu  vốn  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp.  Việc  phát hành  trái  phiếu  giúp  cho  doanh  nghiệp  có  thể  huy  động  số  vốn  nhàn  rỗi  trong  xã hội  để  mở  rộng  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  của  mình.
*  Vốn  liên  doanh  liên  kết: Doanh  nghiệp  có  thể  kinh  doanh  liên  kết,  hợp  tác  với  các  doanh  nghiệp  khác  nhằm huy  động  và  mở  rộng  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh.  Đây  là  hình  thức  huy  động vốn  quan  trọng  vì  hoạt  động  tham  gia  góp  vốn  liên  doanh,  liên  kết  gắn  liền  với  việc chuyển  giao  công  nghệ  thiết  bị  giữa  các  bên  tham  gia  nhằm  đổi  mới  sản  phẩm, tăng  khả  năng  cạnh  tranh  của  sản  phẩm  điều  này  cũng  có  nghĩa  là  uy  tín  của  công ty  sẽ  được  thị  trường  chấp  nhận.  Doanh  nghiệp  cũng  có  thể  tiếp  nhận  máy  móc  và thiết  bị  nếu  như  trong  hợp  đồng  liên  doanh  chấp  nhận  việc  góp  vốn  bằng  hình thức  này.
*  Vốn  tín  dụng  thương  mại: Tín  dụng  thương  mại  là  khoản  mua  chịu  từ  người  cung  cấp  hoặc  ứng  trước  của khách  hàng  mà  doanh  nghiệp  tạm  thời  chiếm  dụng.  Tín  dụng  thương  mại  luôn  gắn với  một  lượng  hàng  hoá  cụ  thể,  gắn  với  một  hệ  thống  thanh  toán  cụ  thể  nên  nó chịu  tác  động  của  hệ  thống  thanh  toán,  cuả  chính  sách  tín  dụng  khác  hàng  mà doanh  nghiệp  được  hưởng.  Đây  là  một  phương  thức  tài  trợ  tiện  lợi,  linh  hoạt  trong kinh  doanh  và  nó  còn  tạo  khả  năng  mở  rộng  cơ  hội  hợp  tác  làm  ăn  của  doanh nghiệp  trong  tương  lai.  Tuy  nhiên  khoản  tín  dụng  thương  mại  thường  có  thời  hạn ngắn  nhưng  nếu  doanh  nghiệp  biết  quản  lý  một  cách  có  hiệu  quả  thì  nó  sẽ  góp phần  rất  lớn  vào  nhu  cầu  vốn  lưu  động  của  doanh  nghiệp.
 *  Vốn  tín  dụng  thuê  mua: Trong  hoạt  động  kinh  doanh,  tín  dụng  thuê  mua  là  một  phương  thức  giúp  cho  các doanh  nghiệp  thiếu  vốn  vẫn  có  được  tài  sản  cần  thiết  sử  dụng  vào  hoạt  động  sản xuất  kinh  doanh  của  mình.  Đây  là  phương  thức  tài  trợ  thông  qua  hợp  đồng  thuê giữa  người  cho  thuê  và  doanh  nghiệp.  Người  thuê  sử  dụng  tài  sản  và  phải  trả  tiền thuê  cho  người  thuê  theo  thời  hạn  mà  hai  bên  đã  thoả  thuận,  người  cho  thuê  là người  sở  hữu  tài  sản. Tín  dụng  thuê  mua  có  hai  phương  thức  giao  dịch  chủ  yếu  là  thuê  vận  hành  và  thuê tài  chính:
*  Thuê  vận  hành: Phương  thức  thuê  vận  hành(  thuê  hoạt  động)  là  phương  thức  thuê  ngắn  hạn  tài sản.  Hình  thức  này  có  các  đặc  trưng  sau:
-  Thời  hạn  thuê  ngắn  so  với  toàn  bộ  thời  gian  tồn  tại  hữu  ích  của  tài  sản,  điều  kiện chấm  dứt  hợp  đồng  chỉ  cần  báo  trước  trong  thời  gian  ngắn. Người  thuê  chỉ  việc  việc  trả  tiền  theo  thỏa  thuận,  người  cho  thuê  phải  đảm  bảo mọi  chi  phí  vận  hành  của  tài  sản  như  phí  bảo  trì,  bảo  hiểm  thuế  tài  sản  .  .  .cùng  với mọi  rủi  ro  vô  hình  của  tài  sản.
-  Hình  thức  này  hoàn  toàn  phù  hợp  đối  với  những  hoạt  động  có  tính  chất  thời  vụ và  nó  đem  lại  cho  bên  thuê  lợi  thế  là  không  phải  phản  ánh  loại  tài  sản  này  vào  sổ sách  kế  toán.
*  Thuê  tài  chính: Thuê  tài  chính  là  một  phương  thức  tài  trợ  tín  dụng  thưong  mại  trung  hạn  và  dài hạn  theo  hợp  đồng.  Theo  phương  thức  này,  người  cho  thuê  thường  mua  tài  sản, thiết  bị  mà  người  cần  thuê  và  đã  thương  lượng  từ  truớc  các  điều  kiện  mua  tài  sản từ  người  cho  thuê  và  đã  thương  lượng  từ  trước  các  điều  kiện  mua  tài  sản  từ  người cho  thuê.  Thuê  tài  chính  có  hai  đặc  trưng  sau: Thời  hạn  thuê  tài  sản  của  bên  phải  chiếm  phần  lớn  hữu  ích  của  tài  sản  và  hiện  giá thuần  của  toàn  bộ  của  các  khoản  tiền  thuê  phải  đủ  để  bù  đắp  những  chi  phí  mua tài  sản  tại  thời  điểm  bắt  đầu  hợp  đồng. Ngoài  khoản  tiền  thuê  tài  sản  phải  trả  cho  bên  thuê,  các  loại  chi  phí  bảo  dưỡng vận  hành,  phí  bảo  hiểm,  thuế  tài  sản,  cũng  như  các  rủi  ro  khác  đối  với  tài  sản  do bên  thuê  phải  chịu  cũng  tương  tự  như  tài  sản  của  Công  ty. Trên  đây  là  cách  phân  loại  vốn  theo  nguồn  hình  thành,  nó  là  tiền  đề  để  cho  doanh nghiệp  có  thể  lựa  chọn  và  sử  dụng  hợp  lý  nguồn  tài  trợ  tuỳ  theo  loại  hình  sở  hữu, nghành  nghề  kinh  doanh,  quy  mô  trình  độ  quản  lý,  trình  độ  khoa  học  kỹ  thuật  cũng như  chiến  lược  phát  triển  và  chiến  lược  đầu  tư  của  doanh  nghiệp.  Bên  cạnh  đó, việc  quản  lý  vốn  ở  các  doanh  nghiệp  trọng  tâm  cần  đề  cập  đến  là  họat  động  luân chuyển  vốn,  sự  ảnh  hưởng  qua  lại  của  các  hình  thức  khác  nhau  của  tài  sản  và  hiệu quả  vay  vòng  vốn.  Vốn  cần  được  nhìn  nhận  và  xem  xét  dưới  trạng  thái  động  với quan  điểm  hiệu  quả. Phân  loại  vốn  theo  hình  thức  chu  chuyển: Vốn  cố  định: Trong  quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh,  sự  vận  động  của  nguồn  vốn  cố  định  được gắn  liền  với  hình  thái  biểu  hiện  vật  chất  của  nó  là  tài  sản  cố  định.  Vì  vậy,  việc nghiên  cứu  về  nguồn  vốn  cố  định  trước  hết  phải  dựa  trên  cơ  sở  tìm  hiểu  về  tài  sản cố  định.
*  Tài  sản  cố  định: Căn  cứ  vào  tính  chất  và  tác  dụng  trong  khi  tham  gia  vào  quá  trình  sản  xuất,  tư  liệu sản  xuất  được  chia  thành  hai  bộ  phận  là  đối  tượng  lao  động  và  tư  liệu  lao  động. Đặc  điểm  cơ  bản  của  tư  liệu  lao  động  là  chúng  có  thể  tham  gia  một  cách  trực  tiếp hoặc  gián  tiếp  vào  chu  kỳ  sản  xuất.  Trong  qúa  trình  đó,  mặc  dù  tư  liệu  lao  động sản  xuất  có  thể  bị  hao  mòn  nhưng  chúng  vẫn  giữ  nguyên  hình  thái  vất  chất  ban đầu.  Tư  liệu  sản  xuất  chỉ  có  thể  được  đem  ra  thay  thế  hay  sửa  chữa  lớn,  thay  thế khi  mà  chúng  bị  hư  hỏng  hoàn  toàn  hoặc  chúng  không  còn  mang  lại  giá  trị  kinh  tế cho  doanh  nghiệp. Tài  sản  cố  định  phải  là  những  vật  phẩm  thuộc  quyền  sở  hữu  của  doanh  nghiệp, trong  một  quan  hệ  sản  xuất  nhất  định.  Bản  thân  tính  sử  dụng  lâu  dài  và  chi  phí  cao vẫn  chưa  có  thể  là  căn  cứ  duy  nhất  để  xác  định  tài  sản  cố  định  nếu  nó  không  gắn liền  với  một  quyền  sở  hữu  thuộc  về  một  doanh  nghiệp,  một  cơ  quan,  hợp  tác  xã... Theo  quy  định  hiện  hành  thì  những  tư  liệu  lao  động  nào  đảm  bảo  đáp  ứng  đủ  hai điều  kiện  sau  thì  sẽ  được  coi  là  tài  sản  cố  định: +  Giá  trị  của  chúng  >=  5.000.000  đồng +  Thời  gian  sử  dụng  >=  1  năm Để  tăng  cường  hiệu  quả  trong  công  tác  quản  lý  tài  sản  cố  định  cũng  như  vốn  cố định  và  nâng  cao  hiệu  quả  sử  dụng  chúng  thì  cần  có  các  phương  án  tuyển  chọn  và phân  loại  chúng:
 *  Phân  loại  tài  sản  cố  định  là  việc  chia  tổng  số  tài  sản  cố  định  ra  từng  nhóm,  bộ phận  khác  nhau  dựa  vào  các  tiêu  chuẩn  khác  nhau:
+  Tài  sản  cố  định  dùng  cho  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh:  loại  này  bao  gồm  tài sản  cố  định  hữu  hình  và  tài  sản  cố  định  vô  hình:
-  Tài  sản  cố  định  hữu  hình:  Là  những  tư  liệu  được  biểu  hiện  bằng  hình  thái  vất  chất cụ   thể  như  nhà  xưởng,  máy  móc  thiết  bị,  phương  tiện  vận  tải,  vật  kiến trúc...Những  tài  sản  cố  định  này  có  thể  là  từng  đơn  vị  tài  sản  có  kết  cấu  độc  lập hoặc  là  một  hệ  thống  gồm  nhiều  bộ  phận  tài  sản  có  liên  kết  với  nhau  để  thực  hiện một  hay  một  số  chức  năng  nhất  định  trong  quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh.  Nhằm một  mục  tiêu  quan  trọng  nhất  là  đem  lại  lợi  nhuận  cho  doanh  nghiệp.
-  Tài  sản  cố  định  vô  hình:  Là  những  tài  sản  cố  định  không  có  hình  thái  vật  chất nhưng  xác  định  giá  trị  và  do  doanh  nghiệp  nắm  giữ,  sử  dụng  trong  hoạt  động  sản xuất  kinh  doanh,  cung  cấp  dịch  vụ  hoặc  là  cho  các  đối  tượng  khác  thuê  phù  hợp với  tiêu  chuẩn  ghi  nhận  tài  sản  cố  định  vô  hình  ví  dụ  như:  chi  phí  thành  lập  doanh nghiệp,  chi  phí  về  sử  dụng  đất,  chi  phí  thu  mua  bằng  phát  minh  sáng  chế,  nhãn hiệu  thương  mại...
+  Tài  sản  cố  định  dùng  cho  mục  đích  phúc  lợi,  sự  nghiệp,  an  ninh  quốc  phòng...
+  Tài  sản  cố  định  mà  doanh  nghiệp  bảo  quản  và  cất  giữ  hộ  Nhà  nước Cách  phân  loại  này  giúp  cho  doanh  nghiệp  thấy  được  vị  trí  quan  trọng  của  tài  sản cố  định  dùng  vào  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  và  thông  qua  đó  doanh  nghiệp đưa  ra  những  chính  sách  hợp  lý  nhằm  đầu  tư  vào  tài  sản  một  cách  hợp  lý. Căn  cứ  vào  tình  hình  sử  dụng  tài  sản  cố  định  của  doanh  nghiệp  mà  chúng  được chia  ra  thành:
-  Tài  sản  cố  định  đang  sử  dụng
-  Tài  sản  cố  định  chưa  cần  dùng
-  Tài  sản  cố  định  không  cần  dùng  chờ  thanh  lý
Cách  phân  loại  này  phần  nào  giúp  cho  doanh  nghiệp  có  thể  hiểu  và  kiểm  soát  dễ dàng  các  tài  sản  cuả  mình.
*  Vốn  cố  định  của  doanh  nghiệp: Việc  đầu  tư  thành  lập  một  doanh  nghiệp  bao  gồm  nhiều  yếu  tố  cấu  thành  như;  xây dựng  nhà  phân  xưởng,  nhà  làm  việc  và  nhà  quản  lý,  lắp  đặt  hệ  thống  máy  móc thiết  bị  chế  tạo  sản  phẩm  ...Doanh  nghiệp  chỉ  có  thể  đưa  vào  hoạt  động  sản  xuất kinh  doanh  khi  mà  nó  đã  hoàn  thành  các  công  đoạn  trên.  Thì  lúc  này  vốn  đầu  tư  đã được  chuyển  sang  vốn  cố  định  của  doanh  nghiệp. Như  vậy,  vốn  đầu  tư  của  doanh  nghiệp  là  một  bộ  phận  vốn  đầu  tư  ứng  trước  của tài  sản  của  doanh  nghiệp;  đặc  điểm  của  nó  được  luân  chuyển  từng  phần  trong nhiều  chu  kỳ  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp  và  một  vòng  tuần  hoàn  của  tài sản  cố  định  chỉ  kết  thúc  khi  mà  nó  hết  thời  hạn  sử  dụng  đồng  thời  nó  sẽ  mang  lại một  phần  lợi  nhuận  nhất  định  cho  doanh  nghiệp.Việc  đầu  tư  để  mang  lại  lợi  nhuận cho  doanh  nghiệp  phần  nào  phụ  thuộc  vào  quyết  định  đầu  tư  của  doanh  nghiệp, đồng  nó  cũng  mang  lại  một  thế  mạnh  cho  sản  phẩm  của  doanh  nghiệp  trên  thị trường. Vốn  lưu  động. *  Tài  sản  lưu  động: Trong  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  vốn  lưu  động  và  cố  định  luôn  song  hành trong  cả  qúa  trình  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp.  Tuy  nhiên  tài  sản  lưu động  nằm  rải  rác  trong  các  khâu  thuộc  quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh.  Đối  với  các doanh  nghiệp  sản  xuất  kinh  doanh  thì  tài  sản  lưu  động  thường  chiếm  một  tỷ  lệ  khá cao  thường  chiếm  khoảng  50%  -  60%  tổng  tài  sản  của  doanh  nghiệp. Tài  sản  lưu  động  khi  tham  gia  quá  trình  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  thường  là không  giữ  được  giá  trị  hình  thái  vật  chất  ban  đầu.  Là  bộ  chủ  thể  tham  gia  hoạt động  sản  xuất  kinh  doanh  và  thông  qua  quá  trình  sản  xuất  tạo  thành  thực  thể  của sản  phẩm,  bộ  phận  khác  cùng  tham  gia  trong  quá  trình  này  bị  biến  đổi  hay  hao  phí theo  thực  thể  được  hình  thành.  Đối  tượng  lao  động  chỉ  tham  gia  vào  một  quá trình,  chu  kỳ  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp  do  đó  toàn  bộ  giá  trị  của chúng  được  chuyển  một  lần  vào  sản  phẩm  và  được  thực  hiện  khi  sản  phẩm  trở hành  hàng  hoá. Đối  tượng  lao  động  trong  các  doanh  nghiệp  được  chia  thanh  hai  phần:
+  Bộ  phận  hàng  dự  trữ:  Đây  là  loại  hàng  dự  trữ  đảm  bảo  cho  quá  trình  hoạt  động sản  xuất  kinh  doanh  nghiệp  không  bị  gián  đoạn.
+  Bộ  phận  vật  tư  đang  trong  quá  trình  chuyển  đến  cho  quá  trình  chế  biến;  bán thành  phẩm,  sản  phẩm  dở  dang,  vật  tư,  nguyên  vật  liệu  khác...chúng  tạo  thành  các tài  sản  lưu  động  nằm  trong  các  khâu  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp. Bên  cạnh  tài  sản  cố  định  nằm  trong  khâu  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp thì  còn  có  một  số  loại  tài  sản  khác  được  sử  dụng  trong  một  số  khâu  khác  trong  cả quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh  của  doanh  nghiệp  như;  khâu  lưu  thông,  các  khoản hàng  gửi  bán,  các  khoản  phải  thu...
    Do  vậy,  trước  khi  tiến  hành  sản  xuất  kinh  doanh các  doanh  nghiệp  bao  giờ  cũng  để  ra  một  khoản  tiền  nhất  định  dùng  cho  các trường  hợp  này,  số  tiền  ứng  trước  cho  tài  sản  người  ta  gọi  là  vốn  lưu  động  của doanh  nghiệp. *Vốn  lưu  động: Có  rất  nhiều  hình  thái  mà  vốn  lưu  động  có  thể  chuyển  đổi  như:  T-H-T / ,H-T-H / .  Tức là  nó  được  chuyển  hoá  từ  tiền  sang  hàng  hoá  sau  đó  nó  trở  về  trạng  thái  ban  đầu sau  khi  đã  phát  triển  được  một  vòng  tuần  hoàn  và  qua  đó  nó  sẽ  mang  lại  cho doanh  nghiệp  số  lãi  hay  không  có  lời  thì  điều  này  còn  phụ  thuộc  vào  sự  quyết  đoán trong  kinh  doanh  của  chủ  doanh  nghiệp.Vậy  thì,  vốn  của  doanh  nghiệp  có  thể  hiểu là  số  tiền  ứng  trước  về  tài  sản  lưu  động  của  doanh  nghiệp  nhằm  đảm  bảo  cho  quá trình  sản  xuất  kinh  doanh  không  bị  gián  đoạn. Vậy  vốn  cần  được  quản  lý  và  sử  dụng  tốt  điều  này  sẽ  mang  lại  cho  doanh  nghiệp nhiều  điều  kiện  trên  thị  trường.  Một  doanh  nghiệp  được  đánh  giá  là  quản  lý  vốn lưu  động  tốt,  có  hiệu  quả  khi  mà  doang  nghiệp  biết  phân  phối  vốn  một  cách  hợp  lý cho  các  quyết  định  đầu  tư  của  mình  và  qua  đó  thì  nó  sẽ  mang  lại  hiệu  quả  kinh  tế cho  doanh  nghiệp.  Nhưng  để  quản  lý  vốn  đạt  hiệu  quả  thì  doanh  nghiệp  phải  có  sự nhận  biết  các  bộ  phận  cấu  thành  của  vốn  lưu  động,  trên  cơ  sở  đó  ra  các  biện  pháp quản  lý  phù  hợp  với  từng  loại. Căn  cứ  vào  vai  trò  của  từng  loại  vốn  lưu  động  trong  quá  trình  sản  xuất  kinh  doanh vốn  lưu  động  bao  gồm:
-  Vốn  lưu  động  trong  khâu  sản  xuất:  là  bộ  phận  vốn  trực  tiếp  phục  vụ  cho  quá trình  sản  xuất  như:  sản  phẩm  dở  dang,  chi  phí  chờ  phân  bổ,  bán  thành  phẩm  tự gia  công  chế  biến.
-  Vốn  lưu  động  trong  khâu  dự  trữ  sản  xuất:  là  bộ  phận  vốn  dùng  để  mua  nguyên vật  liệu,  phụ  tùng  thay  thế  dự  trữ  và  chuẩn  bị  dùng  cho  hoạt  động  sản  xuất.
-  Vốn  lưu  động  dùng  cho  quá  trình  lưu  thông:  là  bộ  phận  dùng  cho  quá  trình  lưu thông  như:  thành  phẩm,  vốn  tiền  mặt...
Căn  cứ  vào  hình  thái  biểu  hiện  vốn  lưu  động  bao  gồm:
-  Vốn  vật  tư  hàng  hoá:  là  các  khoản  vốn  có  hình  thái  biểu  hiện  bằng  hiện  vật  cụ  thể như  nguyên  vật  liệu,  sản  phảm  dở  dang,  bán  thành  phẩm,  thành  phẩm...
-  Vốn  bằng  tiền:  Bao  gồm  các  khoản  tiền  tệ  như  tiền  mặt  tồn  quỹ,  tiền  gửi  ngân hàng,  các  khoản  thanh  toán,  các  khoản  đầu  tư  ngắn  hạn. Các  doanh  nghiệp  dù  hoạt  động  theo  mô  hình  nào,  to  hay  nhỏ  thì  một  nhu  cầu không  thể  thiếu  được  đối  với  các  doanh  nghiệp  đó  là  vốn.  Nó  là  tiền  đề  cho  quá trình  hình  thành  và  phát  triển  của  doanh  nghiệp. Về  mặt  pháp  lý:  Mỗi  doanh  nghiệp  khi  muốn  có  giấy  phép  để  hoạt  động  sản  xuất kinh  doanh  thì  cần  phải  chứng  minh  được  một  trong  các  yếu  tố  cơ  bản  đó  là  vốn  ( điều  này  đã  được  nhà  nước  quy  định  cho  từng  loại  hình  doanh  nghiệp)  khi  đó  thì địa  vị  pháp  lý  của  doanh  nghiệp  mới  được  xác  lập.  Ngược  lại,  thì  doanh  nghiệp  sẽ không  đủ  điều  kiện  để  hoạt  động.  Tuy  nhiên  không  phải  khi  đã  có  được  giấy  phép kinh  doanh  thì  doanh  nghiệp  muốn  kinh  doanh  như  thế  nào  cũng  được  mà  trong thời  gian  đó  thì  doanh  nghiệp  luôn  phải  đáp  ứng  được  mọi  nhu  cầu  về  vốn  theo quy  định  nếu  không  thì  doanh  nghiệp  thu  hồi  giấy  phép  hay  tuyên  bố  giải  thể,  phá sản,  sát  nhập...
 Như  vậy  có  thể  coi  vốn  là  yếu  tố  quan  trọng  hàng  đầu  trong  các vấn  đề  của  doanh  nghiệp  nhằm  đảm  bảo  sự  tồn  tại  tư  cách  pháp  nhân  của  doanh nghiệp  trước  pháp  luật. Về  mặt  kinh  tế:  Khi  các  doanh  nghiệp  đảm  bảo  nhu  cầu  về  vốn  thì  doanh  nghiệp  đó có  khả  năng  chủ  động  trong  các  hình  thức  kinh  doanh,  thay  đổi  công  nghệ,  mua sắm  trang  thiết  bị  hiện  đại  phục  vụ  cho  kinh  doanh,  điều  này  khá  quan  trọng  vì  nó sẽ  giúp  doanh  nghiệp  hạ  được  giá  thành  sản  phẩm,  đáp  ứng  được  nhu  cầu  tiêu dùng  trong  xã  hội. Có  thể  nhận  thấy  được  vai  trò  quan  trọng  của  vốn  đối  với  các  doanh  nghiệp.  Nhờ có  nó  mà  các  doanh  nghiệp  có  thể  thay  đổi  được  trang  thiết  bị,  mở  rộng  quy  mô sản  xuất...  trong  thời  gian  ngắn.  Nó  mang  lại  cho  doanh  nghiệp  được  nhiều  lợi  thế như;  cải  tiến  được  mẫu  mã,  giảm  giá  thành  sản  phẩm,  giảm  được  sức  lao  động cho  nhân  công...mà  vẫn  đáp  ứng  được  chất  lượng  của  sản  phẩm  và  nhu  cầu  của thị  trường  điều  mà  các  doanh  nghiệp  luôn  mong  muốn.  Nhờ  đó  mà  các  doanh nghiệp  sẽ  đáp  ứng  được  nhu  cầu  của  thị  trường,  nâng  cao  uy  tín  của  mình  trên thương  trường  mà  vẫn  mang  lại  hiệu  quả  kinh  tế  cho  các  nhà  đầu  tư.

Đăng nhận xét

 
Copyright © 2016 Kinh Nghiệm Việt
Powered byKinhnghiemviet.com